I. Khái niệm
1. Khái niệm chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là tổng hợp các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức đô, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỉ cương của xã hội.
2. Khái niệm sai lệch chuẩn mực xã hội
2.1 Định nghĩa
Hành vi bao gồm một chuỗi hành động nối tiếp nhau một cách tương đối nhằm đạt được mục đích để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Trong nghiên cứu xã hội học tội phạm, các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm và nghiên cứu về sự sai lệch chuẩn mực xã hội theo nghĩa: Sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội (hành vi sai lệch). Tức là loại chuẩn mực này đưa ra trên cơ sở những yêu cầu chung của cộng đồng nhằm khuôn định hành vi cá nhân phải tuân theo. Những cá nhân nào trong cộng đồng có hành vi khác với yêu cầu được hướng dẫn thì coi là hành vi lệch chuẩn.
Bên cạnh đó, khái niệm sai lệch chuẩn mực xã hội còn được hiểu là những tình huống, sự kiện cụ thể của cuộc sống đóng vai trò là những nhân tố phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực xã hội (tình huống sai lệch).
Cụ thể, trong đời sống xã hội, do nhu cầu điều chỉnh các loại quan hệ xã hội khác nhau nên đã xuất hiện và tồn tại nhiều loại chuẩn mực xã hội khác nhau (chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị, chuẩn mực đạo đức…). Nếu mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức xã hội đều nghiêm chỉnh tuân thủ theo các quy tắc, yêu cầu của các loại chuẩn mực xã hội thì đó là nền tảng của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong thực tế xã hội, không phải các chuẩn mực xã hội luôn luôn được tôn trọng, tuân thủ ở mọi lúc, mọi nơi; mà thường xảy ra các hành vi của cá nhân, nhóm xã hội vi phạm, phá vỡ hiệu lực, tính ổn định, sự tác động của các loại chuẩn mực xã hội. Đó chính là hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Chẳng hạn, học trò vô lễ với thầy, cô giáo ( chuẩn mực đạo đức ); xả rác bừa bãi ở nơi công cộng, viết, vẽ tự do lên các công trình di tích lịch sử ( vi phạm chuẩn mực thẩm mỹ); vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông đô thị ( vi phạm chuẩn mực pháp luật )…
2.2 Phân loại hành vi sai lệch
Các hành vi sai lệch thường được phân loại theo hai tiêu chí :
Thứ nhất, căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực xã hội bị xâm hại gồm có hành vi sai lệch tích cực và hành vi sai lệch tiêu cực.
Hành vi sai lệch tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội. Ví dụ, khi nước ta còn đang đương đầu với chiến tranh, nhất là thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, âm nhạc nước ta phổ biến với các ca khúc viết về cách mạng, âm hưởng hào hùng, ca ngợi cuộc kháng chiến, ngợi ca các chiến sĩ… còn những ca khúc như Chuyện tình Lan và Điệp…bị cấm tuyệt đối vì nó mang tư tưởng không phù hợp với tình hình đất nước và họ coi đó là hành vi sai lệch, là vi phạm. Hòa bình lập lại, những quy định đó không còn tồn tại nữa….
Hành vi sai lệch tiêu cực là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. Ví dụ, luật giao thông đường bộ có quy định phải đội mũ bảo hiểm khi điều khiển phương tiện ô tô, xe gắn máy.. tuy nhiên hầu hết cá nhân khi tham gia giao thông đều không đội mũ bảo hiểm bởi họ nghĩ sẽ chẳng có chuyện gì đâu. Thế nhưng mỗi khi tai nạn xảy ra sẽ gây hoang mang cho mọi người và họ không thể lường trước được hậu quả. Một ví dụ khác, ở tỉnh Thanh Hóa có một làng làm một nghề mà khi nghe ai cũng đều hoảng sợ, đó là nghề chuyên “giết người”. Đây không những là hành vi sai lệch tiêu cực mà còn là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây mất an ninh trong xã hội…
Thứ hai, căn cứ vào thái độ, tâm lí chủ quan của người thực hiện hành vi sai lệch gồm có hành vi sai lệch chủ động và hành vi sai lệch thụ động.
Hành vi sai lệch chủ động là hành vi có ý thức, có tính toán, cố ý (trực tiếp hay gián tiếp) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội, dù chuẩn mực đó đã lạc hậu, lỗi thời hay còn đang tiến bộ. Họ có thể nhận thức được yêu cầu của cộng đồng nhưng họ cứ hành động theo ý họ mặc dù biết không phù hợp. Ví dụ, học sinh biết đánh bạn là xấu, không được phép nhưng vẫn cứ đánh. Bởi vậy, hiện tượng nữ sinh đánh nhau diễn ra phổ biến trong các trường học: một nữ sinh tên Thư,học sinh khối 10, trường THPT Việt Bắc, Lạng Sơn bị đánh hội đồng. Vụ đánh nhau xảy ra vào chiều 12/1/2010, nữ sinh bị đánh mặc quần bò, mặc áo đông, bị đánh đập ngay ven đường trong tiết trời lạnh giá. 4 nữ sinh khác giật tóc,, liên tục dùng chân đánh, đạp vào đầu, vào mặt rồi bắt Thư phải quỳ xuống xin lỗi. Tuy nhiên, đám nữ sinh vẫn không tha, tiếp tục kéo tóc, lôi nữ sinh ra bờ đường đánh tiếp… Đối với hành vi sai lệch này cần có sự giáo dục thường xuyên của cộng dồng để mọi người có trách nhiệm tôn trọng các chuẩn mực xã hội. Trường hợp cần thiết phải sử dụng biện pháp cưỡng chế và thậm chí áp dụng biện pháp trừng phạt. Để khắc phục hành vi sai lệch chủ động này cần phải có sự vận động tuyên truyền, giáo dục thường xuyên và rộng rãi, tạo dư luận lành mạnh của cộng đồng để mọi người hieur và tôn trọng các chuẩn mực xã hội. Hệ thống các chuẩn mực phải được củng cố và đảm bảo sức mạnh để điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng.
Hành vi sai lệch thụ động là hành vi vô tình, vô ý, không mong muốn vi phạm, phá vỡ tính ổn định,sự tác động của các chuẩn mực xã hội. Đặc trưng của loại hành vi sai lệch này là người sai lệch không biết hành vi của mình là sai lệch, nguyên nhân là do họ không nắm vững chuẩn mực hoặc do hiểu sai các chuẩn mực. Ví dụ, một đứa trẻ trả lời trống không khi người lớn hỏi, bởi vì nó chưa biết trả lời thế nào cho đúng chuẩn lễ phép. Hoặc trẻ mẫu giáo có thể đánh bạn để giành lại đồ chơi của mình vì em chưa được dạy hoặc được dạy rồi nhưng chưa nhận thức được rằng đánh bạn là xấu… Để khắc phục hành vi sai lệch thụ động này, chúng ta lưu ý tùy từng trường hợp để có cách: đối với những hành vi do cá nhân không hiểu biết đầy đủ chuẩn mực thì cần thiết phải phân tích, giải thích, thuyết phục để họ hiểu đúng và chấp nhận. Còn đối với người có dấu hiệu bệnh lí cần tạo điều kiện cho họ tiệp xúc nhiều, trường hợp trầm trọng phải nhờ chuyên gia y tế…
Thứ ba, nếu căn cứ và xem xét đồng thời cả hai tiêu chí phân loại nêu trên thì có thêm bốn loại hành vi, đó là:
- Hành vi sai lệch chủ động – tích cực là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu càu của đời sống xã hội hiện tại.
- Hành vi sai lệch chủ động – tiêu cực là hành vi cố ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội mang tính chất tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được nhà nước, xã hội thừa nhận rộng rãi.
- Hành vi sai lệch thụ động – tích cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ sự tác động của chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội.
- Hành vi sai lệch thụ động – tiêu cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.
2.3 Hậu quả của hành vi sai lệch
Khi xem xét hậu quả của hành vi sai lệch nào đó, chúng ta cần phải căn cứ vào một số yếu tố, từ đó giúp ta có thể nhận thức và đánh giá đúng đắn hậu quả của một hành vi sai lệch. Hậu quả của hành vi sai lệch có thể được nhìn nhận trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, hậu quả của hành vi sai lệch có thể mang nội dung, tính chất tích cực, tiến bộ, cách tân nếu như nó vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự chi phối của các chuẩn mực xã hội đã lỗi thời, lạc hậu, phản động, đang kìm hãm sự phát triển của các cá nhân và xã hội. Khi đó hành vi sai lệch có thể góp phần làm thay đổi nhận thức chung của cộng đồng xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội trong cộng đồng.
Thứ hai, ngược lại, hậu quả của hành vi sai lệch có thể mang nội dung và tính chất tiêu cực, ảnh hưởng xấu hoặc nguy hiểm cho xã hội nếu như nó vi phạm, phá hoại tính ổn định, sự tác động của những chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, hành vi sai lệch đó phải bị dư luận xã hội, lên án hoặc đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp trừng phạt theo các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
II. Các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội và ý nghĩa của câc cơ chế đối với lĩnh vực pháp luật
1.Sự không hiểu biết,hiểu biết không đúng, không chính xác các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội
1.1 Nội dung
Trong trường này, đa số các hành vi sai lệch xảy ra chủ yếu là do các cá nhân, tập thể thiếu thông tin, kiến thức, hiểu biết về các chuẩn mực xã hội, thiếu kinh nghiệm thực tế; do họ không hiểu hoặc hiểu không đúng các quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội như pháp luật, đạo đức… do đó họ đã thực hiện những hành vi sai lệch nhất định.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông, trên đường có biển cấm quay đầu xe nhưng do thiếu kiến thức và hiểu biết về luật giao thông đường bộ nên người tham gia lại thực hiện hành vi rẽ phải. Như vậy, người đó đã vi phạm pháp luật, thực hiện hành vi sai lệch.
1.2 Ý nghĩa
Trong lĩnh vực pháp luật, từ cơ chế này, vấn đề đặt ra là, trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật xảy ra có nguyên nhân là do người vi phạm thiếu các thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật thì các cơ quan tư pháp và các cơ quan chức năng khác cần phối hợp với các phượng tiện thông tin đại chúng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật một cách sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân về những nguyên tắc, quy định của các bộ luật; giúp cho người dân có được những kiến thức, hiểu biết nhất định vè pháp luật. Qua đó, góp phần hạn chế những hành vi phạm pháp, phạm tội xảy ra có nguyên nhân là do thiếu kiến thức, hiểu biết về pháp luật.
2. Trong hoạt động nhận thức, tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn một số chuẩn mực xã hội thiếu căn cứ logic cùng với việc sử dụng các phán đoán phi logic
2.1 Nội dung
Đây là một cơ chế dẫn đến hành vi sai lệch. Điều đó có nghĩa là khi tham gia vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, do thói quen suy diễn sai nên các cá nhân và nhóm xã hội thường nhầm lẫn hoặc cố ý áp dụng các chuẩn mực này vào lĩnh vực khác, do đó đã vi phạm một số chuẩn mực nào đó.
Ví dụ: Nhà ông A bị mất trộm con gà, lại nghi ngờ rằng ông B là hàng xóm lấy cắp, rồi xông vào nhà ông B lục xét một cách bất hợp pháp, đây là hành vi sai lệch vì đã vi phạm pháp luật.
2.2 Ý nghĩa
Từ cơ chế này, chúng ta nhận thấy những thói quen trong tư duy, nếp suy nghĩ sai lầm của một bộ phận dân cư trong xã hội thường là nguyên nhân khiến cho họ nhận thức sai, làm lệch lạc nội dung và phạm vi áp dụng của pháp luật. Chính vì thế, khi xây dựng pháp luật, các nhà làm luật cần phải hết sức lưu ý và cân nhắc nội dung của những ngôn từ, thuật nhữ pháp lý được sử dụng. Từng quy phạm pháp luật được đưa ra phải có bố cục chặt chẽ, nội dung phải đầy dủ, rõ ràng và chính xác để tránh trường hợp bị suy diễn sai và áp dụng sai.
3. Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội không còn phù hợp, không còn được cộng đồng xã hội thừa nhận hoặc không ăn khớp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật hiện hành.
3.1 Nội dung
Đây cũng là một cơ chế dẫn tới hành vi sai lệch. Tức là, trong xã hội có những chuẩn mực xã hội như chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục tập quán… đã được hình thành do nhu cầu điều chỉnh, điều hòa các quan hệ xã hội nhất định; đã thể hiện được vai trò, hiệu lực của nó. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của các mối quan hệ xã hội, của các điều kiện lịch sử – xã hội, có những chuẩn mực cần tỏ ra lạc hậu, lỗi thời; trái với các quy tắc đạo đức, pháp luật đang phổ biến, thịnh hành trong xã hội hiện nay. Vậy nhưng vẫn có những cá nhân, tập thể nào đó do không biết, hoặc biết nhưng vẫn cố ý thực hiện, áp dụng các quy tắc đã lạc hậu, lỗi thời đó, dẫn đến vi phạm chuẩn mực xã hội hiện hành trong xã hội.
Ví dụ: Việc đốt pháo vào dịp lễ tết hay cưới hỏi ngày xưa là một việc làm thường xuyên, thậm chí thành tục lệ. Nhưng do tính chất nguy hiểm, việc này đã bị Nhà nước nghiêm cấm. Tuy nhiên. Nhiều gia đình, cá nhân biết nhưng vẫn thực hiện hành vi sai lệch là buôn bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng pháo, thuốc nổ.
3.2 Ý nghĩa
Tìm hiểu cơ chế này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác thực hiện pháp luật. Cần nhận thức rõ rằng, pháp luật phải luôn luôn bám sát và phù hợp với thực tiễn xã hội. Vì vậy, khi trong thực tiễn xã hội có những quy phạm pháp luật tỏ ra lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn xã hội hoặc đã hết hiệu lực thi hành thì Nhà nước cần sớm thay đổi, bổ sung hoặc tuyên bố chấm dứt hiệu lực của chúng một cách kịp thời. Điều đó có tác dụng ngăn chặn, không tạo ra những khe hở để kẻ xấu có thể lợi dụng vào các mục đích phạm pháp, phạm tội.
4. Cơ chế đi từ quan niệm sai lệch tới việc thực hiện hành vi sai lệch
4.1 Nội dung
Trong quá trình vận động, phát triển của xã hội, có những quan điểm, quan niệm chỉ có ý nghĩa thực tiễn, được coi là đúng trong các xã hội trước đây; còn trong xã hội hiện nay chúng tỏ ra không còn phù hợp, bị coi như là quan niệm sai lệch cả về nội dung và tính chất. Mặc dù vậy, vẫn có những cá nhân, nhóm xã hội nào đó làm theo các quan niệm sai lệch đó dẫn đến sai lệch chuẩn mực xã hội hiện hành, tức là đã thực hiện hành vi sai lệch.
Ví dụ: Quan niệm về trọng nam khinh nữ từ ngày xưa vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều cá nhân, gia đình hiện nay. Nhiều gia đình có hiện tượng dù đông con nhưng vẫn tích cực đẻ để mong có con trai nối dõi, dẫn đến vi phạm kế hoạch hóa gia đình, hoặc nhiều ông bố không chỉ cho con trai đi học, thực hiện những phân biệt đối xử giữa con trai và con gái.
4.2 Ý nghĩa
Cơ chế này cho thấy, khi phát hiện có những quan niệm sai về đặc điểm, nội dung, tính chất hay phạm vi áp dụng của một bộ luật hay văn bản quy phạm pháp luật nào đó, hoặc những quan niệm sai lệch sẽ dẫn tới hành vi phạm pháp, thì các cơ quan chức năng của Nhà nước phải sớm có biện pháp định hướng, giải thích, điều chỉnh lại những quan niệm sai lệch đó để kịp thời ngăn chặn những hành vi phạm pháp, phạm tội có thể xảy ra, góp phần hình thành những hành vi cư xử hợp pháp, hợp đạo đức của công dân.
5. Các khuyết tật về tâm – sinh lý con người là cơ chế dẫn tới hành vi sai lệch
5.1 Nội dung
Trong xã hội có những cá nhân do dị tật bẩm sinh hoặc các tai nạn mắc phải ( tai nạn giao thông, tai nạn lao động…) khiến cho họ phải mang trên mình những khuyết tật nhất định về tâm – sinh lí. Đó có thể là những khuyết tật về cơ thể như biểu hiện ở những người bị mù, câm, điếc hoặc mắc các khuyết tật ngoại hình khác… Đó cũng có thể là các khuyết tật về trí lực như biểu hiện ở những người bị mắc các chứng thần kinh căng thẳng, rối loạn, hoang tưởng hoặc mắc bệnh tâm thần… Những khuyết tật đó làm cho những cá nhân mang khuyết tật bị mất đi một phần hoặc toàn bộ khả năng cảm nhận, nhận biết về các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội, khiến họ vi phạm các chuẩn mực xã hội mà không biết hoặc không tự kiềm chế được hành vi của bản thân.
Ví dụ: Một người bị tâm thần, trong khi phát bệnh đã gây thương tích cho một người bình thường thì hành vi này tuy không phải là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng đó cũng là một hành vi sai lệch.
5.2 Ý nghĩa
Nghiên cứu các khuyết tật về tâm – sinh lí ở những cá nhân có hành vi phạm pháp, phạm tội có tác dụng rất lớn trong việc phát hiện và làm sáng tỏ những nguyen nhân chủ quan dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật. Nó giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật tùy theo từng trường hợp phạm pháp cụ thể mà đưa ra những quyết định đúng đắn về nguyên nhân, mục đích hay động cơ phạm pháp, phạm tội; từ đó mà xác định đúng người, đúng tội và vận dụng các biện pháp xử lí, áp dụng khung hình phạt phù hợp. Thực hiện nguyên tắc không xử oan người vô tội, người không bị coi là tội phạm, đồng thời cũng không để lọt lưới kẻ phạm tội, đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
6. Cơ chế về mối liên hệ qua lại giữa các hành vi sai lệch
6.1 Nội dung
Đây là trường hợp đi từ việc thực hiện một hành vi sai lệch này tới việc thực hiện một hành vi sai lệch khác theo mối liên hệ nhân – quả mà chủ thể có thể không biết, hoặc biết nhưng vẫn cứ thực hiện. Trong đó, hành vi sai lệch thứ nhất được coi là nguyên nhân, dẫn tới kết quả là hành vi sai lệch kế tiếp.
Ví dụ: Việc nghiện hút, sử dụng ma túy là một hành vi sai lệch, vi phạm pháp luật và từ hành vi sai lệch đó, một người nghiện khi lên cơn có thể thực hiện hành vi trộm cắp, cướp giật để có tiền mua ma túy sử dụng. Đây lại tiếp tục là một hành vi sai lệch được phát sinh từ hành vi sai lệch đầu tiên là sử dụng ma túy.
6.2 Ý nghĩa
Cơ chế này cho thấy, thông thường, khi cá nhân nào đó thực hiện liên tiếp các hành vi phạm pháp thì giữa các hành vi đó thường có mối liên hệ nhân quả nhất định. Vì vậy, khi một hành vi vi phạm pháp luật, nhất là phạm tội xảy ra, các cơ quan chức năng phải tùy từng trường hợp cụ thể mà sớm áp dụng các biện pháp ngăn chặn kịp thời nhằm hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả xấu có thẻ xảy ra.
III. Khắc phục sai lệch chuẩn mực xã hội
Có nhiều biện pháp khắc phục sai lệch chuẩn mực xã hội như: biện pháp tiếp cận thông tin, biện pháp tiếp cận phòng ngừa xã hội, biện pháp áp dụng hình phạt, tiếp cận y – sinh học, biện pháp tiếp cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội.
http://diendankienthuc.net/diendan/luu-tru-kien-thuc/43782-sai-leich-chuain-muic-xai-hoii.html